bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa
SỞ GD – ĐT NINH BÌNHĐỀ THI ĐÈ XUẤT TỐT NGHIỆP LỚP 12TRƯỜNG THPT KIM SƠN CNăm học: 2013 – 2014MÔN: NGỮ VĂNThời gian làm bài: 120 phút (Đề này gồm 2 phần , 1 trang)Phần I - Đọc hiểu (3 điểm)Đọc đoạn thơ sau trong bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính và thựchiện những yêu
tam quốc diễn nghĩa 2010 thuyết minh; tam quốc diễn nghĩa 2010 thuyết minh online; tam quốc diễn nghĩa 2010 thuyết minh fshare; tam quoc dien nghia 1996 thuyet minh mien bac; tam quoc dien nghia 1996 thuyet minh tap 30; phim tam quốc diễn nghĩa 1996 thuyết minh; tam quốc diễn nghĩa 1996 thuyết minh tập 23
Đây chính là lý do vì sao trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” thường viết Quan Vũ cầm đuốc đọc sách “Xuân Thu”, bí mật trong đó chính là như vậy. Lý giải “Xuân Thu” càng sâu, đao pháp càng lợi hại, vì thế Quan Vũ tay không rời “Xuân Thu”, đàm luận về Xuân Thu. Hai câu
Tân Tam Quốc Diễn Nghĩa 2013 HTV2 (95/95 Tập) (Trọn Bộ) Lồng Tiếng Bản Đẹp Nhất. Phim lấy 6 nhân vật trung tâm là Gia Cát Lượng, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền, Chu Du và Tư Mã Ý, bên cạnh đó là tuyến nhân vật chính và phụ đông đảo: Lã Bố, Đổng Trác, Vương Doãn, Viên
Tiêu đề: Re: bài thơ mở đầu phim Tam quốc diễn nghĩa Mon Aug 04, 2008 9:18 am ui, nghe đến rượu là thèm, vâng, thơ hay lắm ạ, kiệt tác Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng
model pemasangan glass block pada dinding rumah. Giá Nhất Bái là một ca khúc được sử dụng trong phim Tam quốc diễn nghĩa ở cảnh quay Lưu Bị, Trương Phi, Quan Vũ cùng nhau kết nghĩa vườn đào. Bài hát mang theo khí thế của những anh hùng chí lớn gặp nhau. Là cảnh quay khắc sâu cho người xem về tinh thần trượng nghĩa, kề vai gánh vác nghiệp non sơn. Giá nhất bái do Vương Kiện viết lời. Dưới giọng ca mang chất hùng hồn khí thế của Lưu Hoan, bài hát mang lại cho người nghe về hào khí và tinh thần tận trung tận nghĩa của tình huynh đệ giữa các trượng phu nam tử. Bài nhạc được sử dụng trong phim Tam quốc diễn nghĩa sản xuất 1994, ở cảnh quay kết nghĩa vườn đào của 3 anh hùng hảo hán trong tập 1 và cuối tập 19. Đại anh hùng và nghiệp giang sơn Trong Tam quốc diễn nghĩa, có nhân vật được coi là đại anh hùng đó là Tào Tháo và Lưu Bị. Lí do khiến người đời kính trọng hai vị anh hùng này đó chính là ý chí và sức mạnh của họ gắn liền với đại nghiệp thống nhất giang sơn. Muốn gây dựng giang sơn bề thế và quy về một mối. Ảnh Pinterest Nhiều người cho rằng, họ ôm mộng bá chủ thiên hạ. Nhưng thực chất sâu thẳm trong tâm họ không phải là sự theo đuổi quyền lực hay uy danh. Anh hùng ấy là muốn dụng Đức, dụng Chí của mình mà mang lại cho muôn dân hạnh phúc, mang tới cho thiên hạ sự thịnh vượng và an bình không binh đao, khói lửa. Cớ chi thiên địa tạo anh hùng để họ phải lo việc giang sơn. Phải chăng đó là thiên ý muốn sinh xuất một đại anh hùng để lo đại sự. Là người dùng đức của mình mà chiêu binh nạp tướng, là người có thể nhìn thấy khí chất anh hùng trong mỗi một nam nhân. Có người nghĩ, mình mạnh khỏe để có thể làm được nhiều việc cho bản thân và gia đình. Cũng có người nghĩ, mình học cao để có thể xác lập vị trí của mình nơi xã hội. Nhưng những điều đó đều là vì bản thân mà làm. Nhưng lại có người mang tâm tư, làm gì mà có thể mang lại cho tiện ích cho cả xã hội. Đó cũng xứng là một người ôm chí nghĩa hiệp . Người ấy ôm theo hoài bão lớn, muốn dùng vai gánh hết thảy mọi sự của muôn người. Ngày đêm miệt mài rèn thân, luyện chí để rồi một ngày bước chân kia không bao giờ khụy ngã, nắm đấm kia đủ xé tan màn đêm đen tối. Tuốt kiếm vung đao diệt trừ ác, hành thiện giúp dân, thiên hạ bình. Khi ý chí và mộng anh hùng được dệt, thì họ gặp nhau như thể là sự tương hợp của chí lớn. Xin một bái nhận nhau huynh đệ, nguyện cùng vào sinh ra tử cận kề cùng nhau. Gian khó kia chẳng thể làm họ lùi bước. Nghiệp lớn mang, tâm kia trượng nghĩa, lấy đất trời làm minh chứng cho tâm của hào kiệt. Vườn đào kia muôn hoa đua nở như nhuốm màu ân nghĩa từ nay xin được giữ vẹn toàn. Ảnh IFuun Vì đại nghiệp xin cùng nhau rẽ mây vượt sóng, chết chẳng sợ, gian nan chẳng ngại, khó khăn chẳng chùn bước. Với những đại anh hùng chí lớn nghiệp lớn, thì tay kia phải để gây dựng cơ đồ, giang sơn xã tắc. Đó mới chứng tỏ tài trai. Khi đất nước binh đao loạn lạc, khi thấy dân cơ cực lầm than, đại anh hùng nhìn thấy đâu đâu cũng là khói lửa, đâu cũng tiếng khóc tang thương. Lòng quặn thắt mà nguyện mang tấm thân này, đem chí dũng này mà gánh đi hết thảy. Mang tâm thống nhất lãnh thổ mà đem đức trị vì thiên hạ. Họ mang theo ý nguyện của thiên ý mà gây dựng giang sơn, nên muôn dân gọi họ là thiên tử. Bản lĩnh nam nhi trong cái hồn của bản nhạc Giá nhất bái Bài hát cùng âm thanh của bản nhạc khiến người nghe cảm thấy khí thế hào hùng của những hảo hán mang những ý chí và sức mạnh của mình mà thực hiện đại nghiệp. Cùng kết thành huynh đệ gánh vác nghiệp giang sơn. Anh hùng trọng ân nghĩa kết bái. Cùng hô vang khúc anh hùng, cùng đao kiếm xông trận. Khói lửa chông gai chẳng nao núng. Áo vải sờn vai nhưng chí lớn chẳng sờn lòng. Bản lĩnh nam nhi vẫy vùng tứ hải. Ngẩng mặt cao mà hiên ngang giữa đời. Một lạy này, gió xuân ấm áp gặp tri âm Hoa đào hé nở sáng tế đàn Một lạy này, cứu nước an dân lòng khẳng khái Dựng xây nghiệp lớn tỏ tài trai Một lạy này, trung nghĩa một lòng Bên nhau hoạn nạn không xa rời Một lạy này, sống chết không rời Trăng sao trời đất chứng lòng Giáo mác trên tay, đao kiếm sáng ngời Hãy xem anh em ta đây Sợ gì lửa khói xông thẳng tới Phải nói rằng, Giá nhất bái là ca khúc viết cho tất cả những anh hùng chí lớn nghiệp lớn. Nó mang theo hào khí hiên ngang. Sức mạnh của những hảo hán trượng nghĩa tề tựu tại đây kết thành huynh đệ, giống như cơn lốc tố có thể quét sạch hết thảy. Sức mạnh vũ bão ấy cũng chỉ để giúp dân giúp nước. Ấy chính là nghiệp của một trang nam tử ở đời. Một lạy này, cứu nước an dân lòng khẳng khái. Ảnh DailyFocus Dựng xây nghiệp lớn tỏ tài trai Nếu như Hảo hán ca được đánh giá là bản anh hùng ca đầy hào khí, thì Giá nhất bái cũng toát lên vẻ hào sảng ấy, nhưng cái hay của bản nhạc này không chỉ là ca ngợi và thể hiện bản lĩnh của trang nam tử, mà nó còn là lời ca cho tinh thần trung nghĩa. Tâm tư của anh hùng mượn trời đất chứng giám. Thiên địa thấu tỏ một cõi lòng. Ca khúc thể hiện được trong đoạn ba anh hùng cùng kết bái đất trời từ nay nguyện xin được vào sinh ra tử cùng nhau, vinh nhục ở đời, hoạn nạn cùng có nhau. Nghĩa khí ấy tạo nên sức mạnh của một đại anh hùng ôm mộng thống nhất giang sơn một cõi như Tào Tháo hay Lưu Bị. Tịnh Tâm
Vào cuối thời Đông Hán, một triều đại kéo dài 400 năm lịch sử dần bắt đầu đi đến hồi kết, triều đình thối nát, hoạn quan chuyên quyền, quan lại tham nhũng, nạn đói hoành hành. Là bối cảnh xã hội của Trung Hoa lúc bấy giờ. Đổng Trác, 1 thế lực đến từ phía tây bắc đem quân tiến vào kinh thành tiêu diệt hoạn quan, khống chế triều chính lập vị vua trẻ tuổi là Hán Hiến Đế lên ngôi. Tự phong mình là Thái Sư, nắm trọn toàn bộ quyền lực. Năm 190, liên minh các sứ quân do Viên Thiệu cầm đầu đã khởi binh nổi dậy ở các tỉnh miền đông chống lại Đổng Trác. Sau cuộc chiến, dưới áp lực của liên quân Đổng Trác phải mang theo Hiến Đế chạy về phía Tây tới Trường An vào năm 191. 1 năm sau, vì mắc mỹ nhân kế của Vương Doãn, ông bị con nuôi của mình là Lã Bố giết chết. Cũng từ sau cái chết của Đổng Trác, liên minh các sứ quân tan rã, các lãnh chúa địa phương vì sự tranh giành đất đai và quyền lực quay sang tấn công lẫn nhau. Đổng Trác chết, các bộ tướng dưới quyền là Lý Thôi, Quách Dĩ cũng tranh nhau quyền lực. Nhân cơ hội đấy, Hiến Đế tháo chạy khỏi kinh thành. Năm 196, ông được Tào Tháo hộ giá về Hứa Đô, tưởng chừng quyền lực hoàng đế sẽ được khôi phục nhưng lại bị Tháo sử dụng như con bài được gọi là "nắm Thiên Tử lệnh chư hầu". Lúc này Trung Hoa bị phân chia giữa các thế lực quân phiệt đáng gờm như Viên Thiệu ở Ký Châu đối đầu với Công Tôn Toản ở phía bắc, ở Từ Châu có Lưu Bị - mang trong mình máu mủ hoàng tộc cùng 2 người anh em kết nghĩa là Quan Vũ, Trương Phi ôm hoài bão phục hưng lại sự thịnh vượng của nhà Hán. Lã Bố sau khi giết được Đổng Trác, không lâu sau ông cũng bị các thuộc hạ của Trác đuổi đánh khỏi Trường An và hiện đóng quân ở Hạ Bì. Viên Thuật nắm Ngọc Tỉ trong tay và xưng đế ở Thọ Xuân. Xa hơn nữa về phía nam là viên tướng trẻ Tôn Sách xây dựng lực lượng tại khu vực hạ lưu sông Dương Tử, ôm mộng làm chủ miền nam Trung Hoa. Họ Tôn có 1 kẻ thù không đội trời chung trong khu vực đó là Lưu Biểu ở Kinh Châu. Những lãnh chúa khác như Mã Đằng, Lý Thôi,Trương Lỗ, Lưu Chương cũng dáy lên làn sóng tranh giành địa bàn. Chiến sự nổ ra khắp các khu vực tại Trung Hoa. Sử gọi đây là "quần hùng cát cứ". Khi Tào Tháo nắm trong tay vua Hán lực lượng trở nên hùng mạnh, địa bàn từng bước mở rộng; trong vòng 4 năm sau đó, ông lần lượt tiêu diệt Lã Bố ở Từ Châu, thôn tính Viên Thuật ở Thọ Xuân và trở thành phe quân phiệt mạnh nhất phía đông. Cùng lúc, Viên Thiệu cũng đã tiêu diệt đối thủ Công Tôn Toản ở phía bắc và trở thành thế lực mạnh mẽ nhất mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Đô. 2 tập đoàn quân phiệt mạnh nhất Trung Hoa được hình thành. Viên Thiệu với 70 vạn đại quân có tham vọng tiến xuống miền nam tranh thiên hạ. Lúc bấy giờ, Tào Tháo chỉ có trong tay quân để chống lại Viên Thiệu. Sau nhiều tháng lập kế hoạch, 2 bên đã giao tranh tại Quan Độ. Nhờ phát hiện và đốt cháy kho lương của quân Viên, Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến Viên Thiệu đại bại tan nát. Không lâu sau đó, Viên Thiệu suy sụp và bệnh mất. Các con trai của ông ta tranh quyền đoạt vị và tàn sát lẫn nhau. Tháo giành hoàn toàn thế chủ động. Vào năm 207, Tào Tháo tiêu diệt hoàn toàn thế lực tàn dư các con trai Viên Thiệu thống trị toàn bộ miền bắc Trung Quốc. Sau khi liên minh với Viên Thiệu bị tan vỡ, Lưu Bị phải chạy về Kinh Châu nương náu dưới trướng Lưu Biểu. Năm 208, Tào Tháo xuất quân nam chinh với ý định nhanh chóng thống nhất đế chế. Trước tình cảnh đó, Lưu Bị 3 lần thăm lều tranh và chiêu mộ được quân sư Gia Cát Lượng. Lượng đề ra kế sách "liên Ngô kháng Tào" và áp dụng ngay sau đó. Nghe tin quân Tào nam tiến, con Lưu Biểu là Lưu Tòng đầu hàng và dâng đất Kinh Châu. Tào Tháo có đất mà chả tốn 1 binh sĩ nào. Trong tình thế nguy cấp, Lưu Bị sai sứ sang Giang Đông đề xuất liên minh kháng Tào Tháo. Tôn Quyền lúc này người kế vị Tôn Sách ở Giang Đông mở cuộc họp bàn bạc với các mưu sĩ, cuối cùng ông cũng ra quyết định cùng Lưu kháng Tào. Mùa đông năm 208, Tào Tháo triển khai 1 lực lượng thủy quân lên đến 80 vạn quân hướng thẳng vào Giang Đông. Đại đô đốc Chu Du thống lĩnh thủy quân Giang Đông nghênh chiến quân Tào ở Xích Bích. Liên quân Tôn - Lưu lúc này chỉ có 5 vạn, quân Tào do đến từ phương bắc nên không thạo thủy chiến lại bị say sóng, nên Tháo lệnh cho các tàu chiến xích lại với nhau. Vì thế mà Chu Du dễ dàng sử dụng hỏa công thiêu rụi 80 vạn quân Tào trên sông chỉ trong 1 đêm. Sau trận chiến Lưu Bị thừa thắng chiếm đất Kinh Châu của quân Tào và các thành trì ở phía nam. Năm 214, Lưu Bị đưa quân vào Ích Châu và đánh bại Lưu Chương trở thành 1 thế lực tầm cỡ, đối trọng với Tào Tháo ở phía bắc. Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo khôi phục lại lực lượng. Sau đó đem quân triệt tiêu các thế lực cát cứ còn lại ở phía tây như Mã Siêu, Hàn Toại, Trương Lỗ. Năm 219, tướng trấn giữ Kinh Châu của phe Lưu Bị là Quan Vũ xuất chinh bắc tiến vây hãm Phàn Thành. Trước thế tiến công như vũ bão, quân Tào không chống đỡ nổi. Nhân cơ hội Lưu Bị và Tôn Quyền đang bất hòa về việc tranh chấp lãnh thổ, quân sư Tư Mã Ý của phe Tào hiến lên diệu kế "liên Ngô kháng Quan Vũ". Sau khi đạt được thỏa thuận chung, Tào -Tôn liên minh với nhau, Tôn Quyền phái đại đô đốc Lữ Mông lén lút đánh úp Kinh Châu đồng thời bắt sống và xử tử Quan Vũ. Phàn Thành từ đó cũng được giải vây, Kinh Châu nằm trọn trong tay Tôn Quyền. Một năm sau, Tào Tháo bệnh mất ở tuổi 66, con trai ông là Tào Phi lên kế vị, ông phế truất vua Hán chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngụy; 2 người còn lại là Lưu Bị và Tôn Quyền cũng lần lượt xưng đế hình thành thế chân vạc tam quốc Ngụy - Thục – Ngô. Sau khi xưng đế, Lưu Bị đem 70 vạn đại quân tiến đánh Kinh Châu để trả thù cho người em kết nghĩa Quan Vũ. Đại đô đốc nước Ngô là Lục Tốn kháng cự và sử dụng hỏa công. Lưu Bị thất bại thảm hại, suy sụp và bệnh mất, con trai Lưu Bị là Lưu Thiện lên thay, sai sứ làm hòa với nước Ngô cùng nhau đối địch nước Ngụy. Mùa xuân năm 228, thừa tướng nước Thục là Gia Cát Lượng tiến hành chiến dịch chinh phạt nước Ngụy thống lĩnh 10 vạn quân mã với mục tiêu chiến lược là chiếm đóng Trường An. Sau đó tiến thẳng vào kinh đô nhà Ngụy là Lạc Dương. Ngụy quân đại đô đốc Tư Mã Ý xuất chiến chống trả, chiến tranh Thục - Ngụy kéo dài 6 năm, cả 2 bên đều trong thế giằng co. Do vất vả, mệt nhọc lâu ngày mà sinh bệnh. Gia Cát Lượng không may qua đời trong doanh trại, chỉ thọ được 54 tuổi, học trò của Lượng là Khương Duy lên thay thế tiếp tục công cuộc bắc phạt kéo dài 15 năm. Sau khi đẩy lùi được các cuộc tấn công của quân Thục. Tư Mã Ý đức cao trọng vọng, trở thành trọng thần nước Ngụy. Năm 239, Tư Mã Ý cùng tông thất Tào Sảng làm phụ chính vị vua mới là Tào Phương lên ngôi chỉ mới gần 8 tuổi. Nhằm loại bỏ thế lực họ Tư Mã, Tào Sảng dùng mưu thu hồi binh quyền của Ý. Từ đấy, Tư Mã Ý cáo bệnh xin về hưu nghỉ già. 10 năm sau, nhân cơ hội Tào Sảng và những thân tín không đề phòng, Tư Mã Ý phát động chính biến, giết chết Tào Sảng, xử chém hàng loạt những quan chức trong tôn thất họ Tào đưa gia tộc họ Tư Mã nắm quyền lực toàn diện. Từ đó về sau, các hoàng đế họ Tào đều biến thành bù nhìn của họ Tư Mã. Do các cuộc bắc phạt của Khương Duy đều không mang lại kết quả nước Thục trở nên kiệt quệ và suy yếu. Năm 263, con trai Tư Mã Ý là Tấn Vương Tư Mã Chiêu lúc này đang cầm quyền nước Ngụy, ông cử 2 đại tướng Chung Hội và Đặng Ngải thống lĩnh hơn 10 vạn quân tiến đánh nước Thục. Khương Duy cất binh chống trả, chiến đấu quyết liệt với Chung Hội ở mặt trận phía bắc. Đặng Ngải lúc này đem quân đi đường tắt về phía núi Âm Bình xuống đồng bằng và tiến thẳng vào kinh đô nước Thục. Chúa nước Thục là Lưu Thiện vừa nghe tin đã sợ hãi mà ra đầu hàng. Sau khi vào bên trong Thành Đô thì Đặng Ngải từ trong đánh ra. Chung Hội từ ngoài đánh vào, hình thành 2 mũi giáp công nhanh chóng tiêu diệt nước Thục. Sau khi Thục diệt vong, nhưng Khương Duy vẫn còn nuôi hi vọng phục quốc. Nhận ra Chung Hội và Đặng Ngải có mâu thuẫn từ lâu và cả 2 đều có dã tâm tạo phản, Duy dẫn các tướng Thục đến hàng Chung Hội. Hội và Ngải lúc này đang đấu đá nhau, nhờ kế của Khương Duy, Hội dùng thủ đoạn khiến Ngải bị Tư Mã Chiêu xử tử, loại được 1 kẻ địch ra khỏi cuộc chơi. Sau đó Chung Hội quyết định cùng Khương Duy ở Thành Đô thực hiện kế hoạch tiêu diệt Tư Mã Chiêu mưu đồ thống nhất thiên hạ, không may sự việc bị bại lộ các tướng Ngụy nổi giận đem quân xông vào thành giết chết cả hai. Năm 265, Tư Mã Chiêu qua đời, con trai là Tư Mã Viêm lên thay, không lâu sau ông ép vua Ngụy Tào Hoán thoái vị và lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Tấn. Mùa đông năm 279, Tư Mã Viêm tổng động viên quân đội chinh phạt Đông Ngô. Đến năm 280, quân đội Đông Ngô chống trả yếu ớt rồi tan rã vua Ngô là Tôn Hạo đầu hàng quân Tấn chiến tranh kết thúc, thiên hạ được thống nhất, đóng lại 1 thế kỷ chia cắt đầy biến động. Từ khóa tìm kiếm tam quốc diễn nghĩa tập 2, tam quốc diễn nghĩa truyện, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa tập 5, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tam quốc diễn nghĩa 2010 vietsub, tam quốc diễn nghĩa tập 3, tam quốc diễn nghĩa phim truyền hình, 1994, tam quốc chí, tam quoc 2019, bài thơ tóm tắt tam quốc diễn nghĩa, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa trong 9 phút, tam quốc chí và tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa hồi 28, tóm tắt nhanh tam quốc diễn nghĩa, bản đồ tam quốc
1. “Người sống ở đời, chuyện không như ý thường chiếm đến tám, chín phần” – Dương Hỗ2. “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi” – Gia Cát Lượng3. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Gia Cát Lượng4. “Thị phi thành bại hóa thành không” Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay. Trong tác phẩm bất hủ “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung đã khắc hoạ rất nhiều nhân vật lịch sử bằng văn phong vô cùng phong phú, từ miêu tả tướng mạo đến lời nói, cử chỉ. Có rất nhiều câu nói thương tâm mà cho đến nay vẫn khiến người đời thổn thức mãi không thôi. 1. “Người sống ở đời, chuyện không như ý thường chiếm đến tám, chín phần” – Dương Hỗ Trong số đông đảo anh hùng trong “Tam quốc diễn nghĩa”, Dương Hỗ 221-278 vốn không phải là người đáng thất vọng nhất trên chốn quan trường. Ông phục vụ cho 2 triều Tào Nguỵ và Tấn. Vua Tấn phong cho ông đến chức quận công, thực ấp hộ. Thế nhưng Dương Hỗ lại là một trong những người nói ra câu nói chán nản không như ý nhất. “Nhân sinh thất ý vô nam bắc” nam bắc nào ai được thỏa lòng – Với câu nói này, Dương Hỗ bỗng chốc trở thành người bạn tri âm của những người chán nản, không được như ý muốn. Những người bi quan thường hay nói “càng đánh càng thua”, trong khi người lạc quan sẽ nói “càng thua thì càng phải đánh”, cùng một hoàn cảnh giống nhau, nhưng sĩ khí lại hoàn toàn khác nhau. 2. “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi” – Gia Cát Lượng Câu nói này thể hiện tấm lòng trung nghĩa, sẵn sàng xả thân vì nước của Gia Cát Võ Hầu. Tuy nhiên, cũng không ít người cho rằng đây là một câu nói rất thương tâm. Khi Khổng Minh nói “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”, là khi “phạt Ngụy” vốn đã trở thành điều không tưởng, rồi sau đó ông chết ở gò Ngũ Trượng. Trong “Thần điêu hiệp lữ”, khi Quách Tĩnh nói ra câu “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”, có người liền thở dài một tiếng Quách đại hiệp sắp phải hy sinh rồi, thành Tương Dương không giữ được nữa rồi, Đại Tống sắp diệt vong rồi! Quả đúng là “Ra trận chưa thắng người đã mất, trường sử anh hùng lệ đầy khăn!”. 3. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Gia Cát Lượng Khổng Minh dốc hết sức lực phò tá cha con Lưu Bị. Ông đã sáu lần ra Kỳ Sơn, nhưng vẫn phạt Ngụy không thành. Khổng Minh đành phải thở dài rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, không thể cưỡng cầu”. Câu nói này khiến người ta không thể không cảm thấy thương cảm. Thế sự dồn dập không kết thúc, mệnh trời đã định trốn làm sao? Dường như Lưu Bị xưng đế, Tôn Quyền chiếm lĩnh một phương, Tào Tháo thao túng thiên tử hiệu lệnh chư hầu, Quan Vũ bại trận đến Mạch Thành… hết thảy đều là ý Trời. Dù có tài “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” ra sức xoay chuyển tình thế, thì cũng địch không lại ý Trời. Hạng Vũ năm xưa ở Cai Hạ mà nói “Trời muốn ta chết, không phải ở lỗi dùng binh”, quả thật có ý Trời trong đó vậy! 4. “Thị phi thành bại hóa thành không” Thời Tam Quốc, anh hùng hào kiệt nối nhau xuất hiện, trăm trận chiến oai hùng, ngàn chiến công oanh liệt. Thế mà thời gian ạt ào như nước chảy, những Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân… nay còn đâu? Tô Đông Pha khi còn trẻ chí khí cao vời vợi. Ông từng tự phụ “được như Nghiêu Thuấn, chuyện này khó gì”. Nhưng sau khi thập tử nhất sinh trên chốn quan trường, thì tâm ý cũng nguội lạnh mà than rằng “Tào Tháo một đời anh hùng, mà nay ở đâu đây?”. Nhân vật lịch sử trong “Tam quốc diễn nghĩa” nhiều vô kể. Văn phong cực kỳ phong phú. Bởi vậy, để lấy ra 4 câu nói thương tâm nhất thật không hề dễ dàng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng dù có trải qua bao lớp sóng dập vùi của lịch sử, những câu nói gắn liền với điển tích ấy vẫn như văng vẳng bên tai, khiến hậu thế xót xa thổn thức. Vậy nên có bài thơ làm chứng rằng “Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Thị phi thành bại theo dòng nước Sừng sững cơ đồ bỗng tay không Non xanh nguyên vẻ cũ Bao độ ánh chiều hồng. Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi Vốn đã quen gió mát trăng trong Một vò rượu nếp vui bạn cũ Chuyện đời tan trong chén rượu nồng”. Lâm giang tiên – Dương Thận Video Vì sao người Việt Nam ai cũng yêu thích “Tam Quốc diễn nghĩa”? Chung quy chỉ ở 1 chữ mà thôi!
Trong 84 tập phim Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung đã xây dựng thành công rất nhiều hình tượng đặc sắc của các nhân vật nổi tiếng, để lại biết bao câu nói bất hủ khiến người xem không ngừng cảm khái và nhớ mãi. Những câu nói mà bất cứ một người yêu Tam Quốc nào cũng đều muốn “học thuộc lòng”.Bạn đang xem Những câu nói hay trong tam quốcChúng ta đều biết, Tam Quốc diễn nghĩa cũng là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc bên cạnh Thủy Hử, Hồng lâu mộng và Tây Du Kí. Nội dung xuyên suốt chủ yếu của tác phẩm kinh điển này nói về cuộc đấu tranh giữa ba thế lực phong kiến bao gồm nhà Ngụy do Tào Tháo đứng đầu, nhà Thục do Lưu Bị đứng đầu và nhà Ngô do Tôn Quyền đứng đầu trong việc nhất thống thiên hạ. Tuy nhiên cái kết cuối cùng lại hết sức bất ngờ khi giang sơn lại rơi vào tay con cháu của Tư Mã Ý, vốn là một đại thần trong triều chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học mang tính sử thi, Tam Quốc Diễn Nghĩa còn để lại những giá trị nhân văn đầy sâu sắc cho biết bao thế hệ người đọc trên toàn thế giới. Và chúng ta hãy cùng nhau xem lại 21 câu nói kinh điển của các nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết này Tào Tháo – “Ta thà phụ người chứ quyết không để người phụ ta”Câu nói này được Tào Thào nói với Trần Cung khi Trần Cung hỏi Tào A Man rằng tại sao lại giết cả Lã Bá Sa mặc dù biết được gia đình ông ta không hề có ý định hãm hại mình, mà trái lại còn bày tiệc chiêu đãi? Nó thể hiện một góc tính cách của ông man trá, lạnh lùng đến đáng tháo, một gian hùng nhưng cũng là một anh hùng, luôn mang trong mình tư tưởng đa nghi. Vốn sinh ra tài giỏi hơn người, tính tình hào hoa phóng đãng nhưng nhiều mưu mẹo, có tài dụng quân, cai trị thiên hạ. Việc ông giết cả nhà Lã Bá Sa âu cũng chỉ vì bất đắc dĩ, do giải nhầm những “tín hiệu” trong đêm, lúc tâm ông không tĩnh, vì đang bị truy sát, mà tưởng là kẻ thù đã đến nên mới ra tay tàn độc đến thế. Nhưng tự sâu thẳm Tào Tháo không hề muốn sau này, khi xem cách ông nhìn nhận và trọng dụng nhân tài là biết, nhưng vì quá đa nghi và thông minh mà ông mới có nét tính cách “nguy hiểm” đến cũng chính là lý do vì sao người ta gắn cho ông cái mác “gian” vào chữ “hùng”, để trở thành một nhân vật “gian hùng” nhất thời Tam Quốc. Tạo nên một nhân vật rất độc đáo đặc biệt, người ta có thể chê ông, chửi ông, nhưng chắc chắn một điều rằng, ai cũng phải “nể” ông, và có rất nhiều điều phải “học hỏi” từ ông… một nhân vật quá xuất chúng, không thể bàn Gia Cát Lượng – “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Số trời đã định, không thể cưỡng lại”Một trong những người được vinh danh muôn đời sau không ai khác là Gia Cát Lượng, phò tá của Lưu Bị. Sự kiệt xuất của ông khiến kẻ thủ phải cúi đầu kính nể, hậu thế phải nghiêng mình bái phục qua rất nhiều điển tích, trận đánh lớn.“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Số trời đã định, làm sao cưỡng lại! Kỳ nhân như Gia Cát Lượng ngàn năm khó kiếm, mang trong mình trí huệ tuyệt vời của người tu Đạo, được mệnh danh là “liệu sự như Thần”, tức chỉ có thể là “Thần” mới tính được đến mức ấy, là người thì không thể! Ấy vậy mà trong cuộc đời ông, ông cũng không thể nào tránh khỏi “thiên ý”, vốn là sự sắp đặt của định mệnh, của những sinh mệnh tầng cao hơn hẳn ông, vốn đã “an bài” toàn vẹn trật tự xã hội, sự thịnh suy của các triều đại, và của cả từng cá nhân mỗi một con người…Như lần đốt cha con Tư Mã Ý thất bại vì mưa trên trời tự nhiên’ rơi xuống, cản Lưu Bị tránh khỏi thất bại trong trận Di Lăng không được, lục xuất kỳ sơn nhiều lần suýt thắng thì bị điều về Tứ Xuyên, cầu sống lâu thêm 10 năm nữa để phục dựng sự nghiệp nhà Hán cũng bất thành,… tất cả đó đều là “ý trời”, trời muốn “biến” thì không ai cản nổi… chỉ có thuận theo tự nhiên mới là bậc trí giả, kẻ thức thời mới là trang tuấn thêm Cách Đăng Ký, Tạo Tài Khoản Game Ngọc Rồng Online Nhanh Nhất3. Lưu Bị – “Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa”Song hành cùng Gia Cát Lượng trong cuộc hành trình chinh phạt Tào Nguỵ là Lưu Bị với triết lí sống ngược lại Tào Tháo “Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa”.Chính vì điều này nên Lưu Bị, mặc dù chỉ là anh bán dép ngoài phố, đã lấy lòng được các anh hùng trong thiên hạ như 2 anh kem Trương Phi – Vân Trường, “thần nhân” Gia Cát Lượng, Triệu Tử Long, Mã Siêu, Hoàng Trung,… và hàng ngàn hàng vạn dân chúng thời bấy giờ, lập nên đại nghiệp hùng tráng, chấn động lịch Chu Du – “Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng”Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Chu Du là đại danh từ tượng trưng cho lòng dạ hẹp hòi, không chịu thua ai, cũng chỉ khi ông ta bệnh nặng vô phương cứu chữa, không còn sống được bao lâu nữa, mới cảm khái mà thốt ra câu nói này từ tận đáy có điều là câu nói này quá tự ti, tôn vinh chí khí của Gia Cát Lượng, mà hạ mất uy phong của chính mình. Khiến cho hình tượng của hai người này đã định rõ vị trí trong đầu của mọi người mãi về sau. Thực chất, lịch sử cũng giống như một màn kịch, và để con người có thể hiểu thế nào là thiện-ác, đúng-sai, tốt-xấu thì đều cần người đến đễ “diễn” một phen, mới thấu tỏ được hàm nghĩa của từ câu chuyện này, Chu Du vốn là 1 đại đô đốc, một vị anh hùng cái thế nhà Đông Ngô, trí tuệ và uy dũng hơn người, nhưng vạn bất đắc dĩ, lịch sử lại “chọn ông” để đóng cái vai “ghen tỵ” ấy, nếu không thì sẽ khó có thể khiến cho con người hiểu được thế nào là “ghen tỵ”. Hoặc cũng có thể đây chỉ là thổi phồng trong tác phẩm nghệ thuật, với bàn tay cố ý sắp đặt của tác giả, cũng là để nhấn mạnh tình tiết ấy, chứ chưa hẳn trong lịch sử Chu Du là người như vậy. Nhưng có thể khẳng định, Đông Ngô có được 1 người như Chu Du quả là quá may mắn!5. Lưu Bị – “Khắp người Tử Long đều là gan”Đây là lời bình hăng say nhất của những ai hâm mộ Triệu Vân hay Triệu Tử Long, nguyên là trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Triệu Vân không phải là đối tượng được tác giả tập trung miêu tả, nhưng vì mỗi lần ông ra trận đều là tư thế hiên ngang hùng dũng, đánh đâu thắng đó, có thể được một câu khẳng định của Lưu Bị như vậy, tất nhiên là quá là vui mừng rồi!Còn nhớ trong trận Đương Dương Trường Bản, một mình Triệu Tử Long xung pha trận mạc, lọt giữa đại quân Tào Tháo, vẫn chiến đấu bất khuất, giết chết hơn 50 tướng địch, khiến ngay cả Tào Tháo cũng bội phục, từ đó giải cứu thành công ấu chúa A Đẩu, vang danh thiên hạ. Lòng can đảm, ý chí và sự trung thành ấy khiến người đời sau mỗi lần nhắc đến ông đều vô cùng cảm khái, và dành tặng cho ông một tình cảm vô cùng đặc biệt mà hiếm một nhân vật nào xuất hiện “không nhiều” mà lại được mến mộ đến Tào Tháo – “Sinh con thì phải được như Tôn Trọng Mưu”Tôn Trọng Mưu chính là tên tự của Tôn Quyền. Nhiều người khi mới đọc không hiểu hàm nghĩa của câu nói này của Tào Tháo, rốt cuộc là ông đang khen Tôn Quyền hay đang mắng Tôn Quyền đây. Sau này mới biết, kì thực Tào Tháo là thế hệ cùng thời với Tôn Kiên, cha của Tôn Quyền, nên ông nói câu này cũng không có gì lạ ra, ý của Tào Tháo chính là khen Tôn Quyền có thể giữ được cơ nghiệp của cha anh để lại qua bao phen sóng gió thời loạn thế, so với những đứa con bại trận của Viên Thiệu và Lưu Biểu thì quả là khác nhau một trời một vực. Khó trách Tào lại ngậm bồ hòn làm ngọt, rất khen ngợi Tôn Quyền, tự mình nói ra mấy lời thêm “Teemo Guide” Hướng Dẫn Cách Chơi, Lên Đồ, Bảng Ngọc Teemo Mùa 97. Tư Mã Huy – “Phục Long, Phượng Sồ, có được một trong hai, ắt được thiên hạ”Tư Mã Huy vô cùng coi trọng Gia Cát Lượng và Bàng Thống, ông từng ví Gia Cát Lượng với Khương Thượng Khương Tử Nha thời nhà Chu, Trương Lương thời nhà Hán, vậy nên những lời này từ miệng ông nói ra cũng không có gì là lạ. Cả hai đều là bậc kỳ tài trong thiên hạ, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, do đó những lời này cũng không phải là nói quá chút nhiên điều kỳ lạ là Lưu Bị đều có được hai người này, nhưng lại không thể bình định được thiên hạ, không thể không khiến người ta suy ngẫm. Thực ra như đã nói ở trên, đó cũng chính là vì “thiên ý” đã định, chứ không phải nói 2 người này không giỏi. Khí số nhà Hán đã mạt, cần thay đổi triều đại, cũng giống như con người, đến lúc già, phải chết thì sẽ phải chết thôi, cố gắng uống thuốc hay làm gì để kéo dài thọ mệnh cũng khó lòng thay đổi được số phận. Nhưng qua đây mới thấy, dù khí số nhà Hán đã cạn, đến thời Hán Hiến Đế là rơi vào tay Tào Tháo, ấy vậy mà sự xuất hiện của Gia Cát Lượng đã khiến bánh xe lịch sử “chậm lại”, vẫn khiến xuất sinh 2 vị Hoàng Đế cuối cùng của nhà Hán là Lưu Bị và con trai ông, điều này cho thấy tài năng của Gia Cát Lượng là hoàn toàn vượt xa sự tưởng tượng!
bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa